Đặng Tộc Đại Tông Phả
Chủ Nhật, 01/12/2013
“Đặng Tộc Đại Tông Phả” do Yên Quận công Đặng Đình Thự biên tập, Tiến sĩ Quốc lão Đặng Đình Tướng tục biên, Thái Nhạc Quận công Đặng Sĩ Hàn tục biên, Phó Giám đốc Trung tâm nghiên cứu và ứng dụng phả học Việt Nam Nguyễn Văn Thành biên khảo và giới thiệu.

PHẢ CHI TRƯỞNG HỌ ĐẶNG
BÀI TỰA
QUYỂN PHẢ CHI TRƯỞNG HỌ ĐẶNG
Vì sao phải lập phả? (Vì rằng) mọi vật sinh thành đều có gốc ở trời, con người sinh ra có một cội nguồn từ tổ tiên. Các đời tổ tiên xa dần, xa dần thì con người dễ quên. Cổ lễ đặt ra tôn tổ, kính tông là để (con cháu) nhớ họ hàng vậy. Các đời truyền xa dần, sự tích mờ nhạt (vậy) ai biết được công đức của tổ tông? Mỗi nhà lẽ nào lại không có phả riêng để ghi lại sao?
Tôi sợ cuốn phả cũ của gia tiên không được tu bổ thì nề nếp tốt đẹp của tổ tông không được kế thừa thì nào ai biết được cội nguồn của gốc nhân nền nghĩa? Điều đáng sợ chính là sự phóng đãng, lãng quên không biết noi theo đức hạnh của tổ tiên. Ta không muốn tiêng tăm của gia đình như ngọc lành mang vết, cho nên trình bày khái lược công đức to lớn của các cụ thủy tổ tiếp đến công nghiệp của liệt tổ là để làm gương cho con cháu muôn đời. Bèn ghi đầy đủ vào phả này.
Tống trấn trọng thần của triều Lê, phong Yên Quận công Quản đốc bốn vệ quân Thần Võ Phong Nam quân Đô đốc Đặng Đình Thự kính cẩn làm bài tựa.
BÀI TỰA
PHẢ CHI TRƯỞNG HỌ ĐẶNG
Đặng tộc đại tông phả là phả chi trưởng họ Đặng vậy. Họ ta vốn là người huyện Thiên Lộc lưu lạc ở ấp ta đến nay đã sáu, bảy đời. Xưa kia đã có gia phả ghi chép từ cụ Tị tổ là Cao Nghĩa Thần triều Trần do (Đặng) Đình Thự biên tập. Trên từ cụ Cao Nghĩa Thần, dưới đến hiển khảo, nguồn gốc từ đâu đến, sinh ra từ chi nhánh nào, phần mộ, ngày giỗ phần nhiều ghi thiếu hoặc vì khi nhà Trần mất nước, do nạn binh Minh, giặc Mạc mà mất, hoặc ghi chép thiếu sót.
Chi trưởng ta từ cụ Đình Nghi đến cụ Đình Huấn từ trước đến nay mới sáu, bảy đời, tuy nghèo nhưng khoa hoạn theo nhau kết nối. Đời trước gây dựng, đời sau kế thừa còn có chỗ tham khảo, hiệu đính. Tổ tông tích đức hàng trăm năm nay mới nảy nở.
Bắt đầu từ cụ Đình Huấn lập riêng Ngành đại tông thế thứ trước sau, niên đại xa gần, phần mộ, ngày giỗ thường ngày phả cũ đã ghi chép lại thì đã rõ. Những điều phả cũ còn chưa ghi chép thì phụ thêm vào, tất cả đều kính cẩn biên chép. Ngỏ hầu con cháu hàng ngàn năm sau còn ngợi ca công lao vất vả cũng như khí tiết giản dị, cương nghị của tổ tiên. Những vị thành đạt có thể chiêm ngưỡng mà noi theo; Những người hư hỏng cũng biết mà lấy làm răn, vậy nhân đây bày tỏ lời nói này.
Cháu Đặng Đình Tướng, tiến sĩ triều Lê, vâng mệnh sang sứ phương Bắc, Lại Bộ Thượng thư Tả Tị lang phong Nam tước, đổi làm Tả Đô đốc ra trấn Tây Nam, thăng Tá Lý Công Thần Tiền Hòa doanh Thái phó làm bài tựa.
PHẢ HỆ HỌ ĐẶNG
Nam quân Đô đốc, Tống trấn trọng thần Yên Quận công Đặng Đình Thự biên tập.
Lại Bộ Thượng thư, đi sứ Phương Bắc, Tá Lý Thái phó Đặng Đình Tướng tục biên.
Kính xét: Trên từ cụ Tị tổ Cao Nghĩa Thần xuống đến tiên tổ là cụ Đình Huấn thế thứ rõ ràng cho nên tất cả đều ghi theo phả cũ.
Duy từ cụ Đình Nghi thì bắt đầu phân chi và là tổ của chi họ ta.
Cho nên cụ tổ đầu tiên của chi ta tính cụ Đình Nghi là đời thứ nhất và trở thành một chi trưởng riêng.
Mùa thu năm Quý Hợi niên hiệu Chính Hòa thứ 4 (1683).
Đặng Đình Thự biên tập.
Ngày tốt mùa xuân năm Bính Dần niên hiệu Chính Hòa thứ 7 (1686) Đặng Đình Tướng tục biên.
ĐỜI THỨ 1
Tị tổ Đặng Tảo sinh năm Giáp Dần ngày 10 tháng 5 thời vua Lý Cao Tông niên hiệu Trịnh Phù thứ 20. Ông đỗ Thái học sinh, làm quan tới Thừa hiến, Thăng Phó Đô đốc Nhập thị nội các Tu soạn Kinh Diên kiêm Đông các Đại học sĩ cáo thụ Vân ý Vinh lộc đại phu phong tặng Cao Nghĩa Thần. Ngày giỗ không truyền lại. Mộ táng tại Quận Sơn.
Tỷ tổ (cụ bà) họ Cù, hàng thứ 3, hiệu Từ Huệ sinh năm Giáp Dần (1194, niên hiệu Thiên Tư Gia Thụy thứ 9) thời Lý Cao Tông, niên hiệu Trịnh Phù thứ 20, được phong tặng Chính phẩm phu nhân. Phần mộ và ngày kị không ghi được.
Tị Tổ Đặng Diễn húy Sinh là em cụ Đặng Tảo, sinh năm Tân Mùi (1211) thời vua Lý Huệ Tông, hiệu Kiến Gia. Đến khoa Nhâm Thìn (1232) triều Trần ông thi đậu Thái học sinh, làm quan tới Thừa hiến thăng Lại Bộ Tả Thị lang cáo thụ Gia nghị Đại phu.
Ngày kị và mộ không thấy truyền.
Tị tổ Đặng Ma La là em Đặng Diễn. Ông sinh năm Giáp Ngọ thời Trần Thái Tông niên hiệu Kiến Trung năm thứ 10. Ông đậu Thám hoa khoa Đinh Mùi (1247) lúc 13 tuổi. Ông làm quan tới Nhập thị nội các Tu soạn Kinh Diên thăng Thị giảng Vũ hiển Đại học sĩ cáo thụ Vinh lộc Đại phu. Sau khi làm quan, ông về lập doanh ấp ở xã Chúc Sơn, huyện Chúc Đức, trấn SơnNam. Họ Đặng phát tích ở Chúc Sơn.
ĐỜI THỨ 2
Tiên tổ họ Đặng húy Hữu Điểm là con trưởng của Đặng Ma La. Ông làm quan Đại phu triều Trần. Ông phụng mệnh vua đi sứ Nguyên trước để nạp cống lễ, sau để do thám. Trong kháng chiến chống Nguyên Mông, ông bày mưu giúp việc nước, hết lòng vì việc dân cho đến thắng lợi hoàn toàn.
Tiên tổ tỉ (bà) họ Nguyễn, hiệu Thiện Tâm sinh 2 con Đặng Nhữ Lâm và Đặng Tảo.
ĐỜI THỨ 3
Tiên tổ họ Đặng húy Nhữ Lâm là con trưởng của ông Đặng Hữu Điểm. Ông sinh năm Tân Tỵ đời vua Trần Nhân Tông (1281) niên hiệu Thiệu Bảo (1279- 1282), làm quan đến Đại phu, vâng mệnh đi sứ Bắc nộp cống lễ, sau lập mưu vào thành Uyển Cung lấy sách cấm (sách dạy làm lịch). Việc không thành, sau hai năm ông trở về nước. Ông tham gia chống Nguyên Mông có công lớn. Ông mất năm Ất Sửu niên hiệu Thiệu Phong đời Trần Dụ Tông.
ĐỜI THỨ 4
Tiên tổ họ Đặng húy Lộ là con trưởng ông Đặng Nhữ Lâm, triều Trần ông giữ chức Lệnh ở Thái sử cục, kiêm soạn Hiệp lịch đã được nhà vua chuẩn y. Ông đước sắc phong Mậu Lâm Lang. Khi ông 60 tuổi, xây dựng từ đường họ Đặng tại trang Lương Xá. Từ Đường có câu đối:
“Thập bát quận công tam tể tướng
Bách dư tiens sĩ, cửu công hầu”.
Nghĩa là:
“Mười tám quận công, ba tể tướng
Hơn trăm tiến sĩ, chín công hầu”.
Mộ ông táng tại xứ Cửa Chùa xã Trúc Sơn.
Tiên tổ tỉ (bà) họ Cù hàng thứ 2, hiệu Từ Đức, được phong tặng Tòng lục phẩm An Nhân.
Tiên tổ họ Đặng húy Du là con ông Đặng Lộ, ông được nhận sắc phong làm Hiệu Lực, Tả Hiệu úy.
Tiên tổ họ đặng húy Long là em ông Đăng Du, được sắc phong hiệu lực Hữu Hiệu úy.
ĐỜI THỨ 5
Tiên tổ họ Đặng húy Bá Kiển là con trai ông Đặng Lộ. Ông vốn ở tại Chương Đức sau vào Nam Hồng Lĩnh thuộc thôn Đông Rạng, xã Tả Thiên Lộc, tổng Phù Lưu, huyện Can Lộc, phủ Đức Quang, lộ Nghệ An.
Thật là:
“Hồng lĩnh triệu cơ
Lam giang khải vũ”.
Nghĩa là:
“Dựng nền đất Hồng Lĩnh
Xây đê tại Lam Giang”.
Vì ông là người có địa vị, con cháu làm quan to được phong đến Thái Bảo ở đất Hồng Lĩnh địa linh nhân kiệt, tám chín đời quyền cao chức trọng nên họ Đặng phát tích từ đó.
“Hồng Lĩnh Lam Giang tân địa quyết
Sơn Vi Chương Đức cựu môn phong”.
Nghĩa là:
“ Đỉnh Hồng, sông Lam vùng đất mới
Sơn Vị, Chương Đúc nếp nhà xưa”.
Ông mất ngày 10 tháng Giêng, mộ táng tại xứ Thung Sơn.
Tị tổ (bà) họ Nguyễn, hiệu Từ Thiện.
Bà sinh Đặng Bá Tĩnh, Đặng Ái, Đặng Khang.
ĐỜI THỨ 6
Tiên tổ họ Đặng, húy Bá Tĩnh là con trưởng ông Đặng Bá Kiển. Ông được trời cho thông minh, cao kiến, cầm bút thành văn, xuất khẩu thành thơ. Triều Trần tuyển nhân tài, ông đến kinh đô dự tuyển. Ông làm văn như kình nghê trương vây, như phượng hoàng tung cánh, bút phê “văn bài rất tuyệt, chữ viết như rồng bay, như hổ chạy, lời văn như đại bàng bay chín tầng mâ ”. Ông đỗ Thám hoa. Nhân dân thời đó tặng ông bảy chữ:
“ Diễn cảnh sự nghiệp kiến tùng thi ”
Nghĩa là:
“ Sự nghiệp canh tác sánh thơ tùng ”
Ông làm quan đến Hành khiển chuyển vận sứ thăng Thượng thư Bộ Lại, tặng phong Tuấn sĩ Hầu. Mộ táng tại xứ Quát Hương.
Phu nhân là Trần Thị Ngọc Diệp.
Tiên tổ họ Đặng húy Ái là em ông Đặng Bá Tĩnh sinh ông Đặng Chí.
Tiên tổ họ Đặng húy Khang, ông là em ông Đặng Ái, ông sinh ra Đặng Diệu, Đặng Cung.
ĐỜI THỨ 7
Tiên tổ họ Đặng húy Đình Dực là con trưởng ông Đặng Bá Tĩnh. Ông là nho sinh trường Quốc Tử Giám, là bậc tài hoa ở đất Thăng Long. Ông làm quan Tri châu châu Quỳ Hợp, lộ Nghệ An.
Tiên tổ tỉ (bà) là Chính thất phu nhân hiệu Từ Huệ, sinh ra Đặng Tất, Đặng Đức và Đặng Quý.
Tiên tổ họ Đặng húy Lâm là con thứ ông Đặng Bá Tĩnh.
Tiên tổ họ Đặng húy Kỳ là em ông Đặng Lâm.
Tiên tổ họ Đặng húy Phi em ông Đặng Kỳ.
Tiên tổ họ Đặng húy Chí là con ông Đặng Ái.
Ông Đặng Chí thi đậu Hương cống làm quan tới Tham chín xứ Quảng Yên.
Tiên tổ họ Đặng húy Diệu là con cả ông Đăng Khang. Ông thi đậu Hương cống làm quan tới Tham chính xứ Hải Dương.
Tiên tổ họ Đặng húy Cung là em ông Đặng Diệu.
ĐỜI THỨ 8
Tiên tổ họ Đặng húy Tất là con trưởng ông Đặng Đình Dực. Ông sinh ở thời Trần, lúc nhỏ thông minh, trí tuệ, thi Hương trúng Cống sinh, thi hội trúng Tam trường, thi Đình trúng Thám hoa. Ông tài kiêm văn võ, chiến thuật chiến lược tinh thông, làm quân đến Tri châu Thăng Hoa, thăng Đại Tri châu Hóa Châu. Tháng 5 năm Đinh Hơi (1407) vua Giản Định khởi binh tại Thiên Trường. Đặng Tất đem 10 vạn binh là quân bản bộ cộng với binh mới mộ theo Giản Định Đế. Giản Định phong ông là Quốc công. Con gái ông Đặng Tất là Đặng Thúy Hạnh vào làm Hậu phi Giản Định Đế. Đặng Tất đại thắng quân Minh ở Bô Cô. Đặng Tất chỉ huy quân sỹ đánh quân Minh diệt hơn 4 vạn tên cùng các tướng lĩnh. Mộc Thạnh trốn chạy vào thành Cổ Lộng, nhà Trần có cơ xây dựng lại được nhưng sau vì những bọn Nguyễn Quỹ, Nguyễn Mộng Trang xúi giục nhà vua giết ông vào tháng 2 năm Kỷ Sửu (1409) niên hiệu Trùng Quang thứ 1.
Vua Lê Thái Tổ tặng bốn chữ đại tự : “Tiết liệt cương trung ”, truy phong Đại Quốc công, Kiệt tiết tuyên lực, Dực vận tán trị công thần, phong Thượng đẳng phúc thần.
Tổ tỉ ( bà) Chính thất phu nhân là Phạm Thị Kim Chi sinh 4 nam 1 nữ và 2 con nuôi.
Đặng Dung cư tại (Thiên Lộc), Đặng Chủng (cư ở tại Tiên Điền, huyện Nghi Xuân), Đặng Liên (cư tại Hoa Lư, Ninh Bình), Đặng Thát (cư ở Hương Sơn, Nam Đường).
Đặng Thúy Hạnh.
Con nuôi: Đặng A Thiết, Đặng A Noãn
Tiên tổ họ Đặng húy Đức là em ông Đặng Tất là tướng hầu cận vua Giản Định Đế, con cháu ở cùng nhau tại Hóa Châu, Thăng Hoa.
Tiên tổ họ Đặng húy Quý là em ông Đặng Đức. Ông quyền trấn trị Hóa Châu. Con cháu về sau tụ tập tại Tân Bình (Quảng Bình), Thuận Hóa (Quảng Trị, Thừa Thiên).
CHI GIÁP NGÀNH TRƯỞNG
ĐỜI THỨ 9
Tiên tổ họ Đặng húy Dung là con trưởng của ông Đặng Tất. Ông sinh năm Quý Sửu (1373) niên hiệu Long Khánh thời trần Duệ Tông (1373-1376), ông là người văn võ toàn tài, thao lược tinh thông. Giận vì cha chết oan, ông cùng Cảnh Dị và các em Đặng Chủng, Đặng Liên, Đặng Thát lập vua Trùng Quang tiến đánh quân Minh. Vua Trùng Quang phong ông làm Bình chương Quốc sự, ông đánh nhau với quân Minh hơn trăm trận. Quân Minh thua to ở Bình Than, Hàm Tử, Chí Linh, Chi La. Sau trận Sài Gia, bị quân Minh truy bức, ông cùng vua Trùng Quang bị bắt. Giặc Minh dùng thuyền biển giải ông về Yên Kinh. Ông đâm đầu xuồng nước tuẫn tiết, đó là vào tháng chạp.
Ông được vua ban sắc phong là Đôn Túc Văn Lâm Lang - Trung nghĩa thần, truy phong Cao Sơn Hầu.
Sinh thời ông có bài thơ “Cảm hoài”:
“Thế sự du du nãi lão hà
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa
Trí chủ hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vẵn thiên hà
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ long tuyền đới nguyệt ma” .
Dich thơ:
“Việc đời man mác tuổi già thôi
Đất rộng trời cao chén ngầm ngùi
Gặp gỡ thời cơ may những kẻ
Tan tành thế sự luống cây ai
Phò vua bụng những mong xoay đất
Gột giáp sông kia khó vạch trời
Đầu bạc giang sơn thù chưa trả
Long tuyền mấy độ bóng trăng soi”
Vua Lê Thái Tổ tặng 4 chữ đại tự “Trung thần hiếu tử ” ở nhà thờ có đối liễn:
“Quốc sĩ vô song, song quốc sĩ
Anh hùng vô nhị, nhị anh hùng”
Nghĩa là:
“Quốc sĩ không (có) hai, nhà (có) hai quốc sĩ
Anh hùng chỉ ( có ) một, nhà (có) hai anh hùng”
Tỷ tổ (bà) phu nhân Lê Thị Ngọc Hoa, sinh 4 nam, chia làm 4 chi, mỗi chi một phương .
Con cả: Đặng Nghi - Phúc Thắng hầu.
Con thứ: Đặng Địch Qủa - Tham chính.
Con thứ: Đặng Di - Hoàng giáp.
Con thứ: Đặng Công Thiếp -Tiến sĩ.
ĐỜI THỨ 10
Tiên tổ họ Đặng húy Nghi là con trưởng ông Đặng Dung. Ông sinh 20 tháng 10 năm Tân Mùi (1391) đời Trần Thuận Tông niên hiệu Quang Khải (theo sử là Quang Thái ) năm thứ 2 (1389).
Ông sinh ra gặp thời loạn lạc, gia đình ly tán, hiển tổ là Đặng Tất chết oan. Ông thắp đèn 7 tuần (báo hiếu), được đội ơn ban chức Thị dưỡng dưỡng được truy phong Phúc Thắng hầu, hưởng thượng thọ, giỗ mồng 2 tháng 3. Mộ táng xã Chúc Sơn, huyện Chương Đức tại nơi có tên là núi Hỏa Tinh, tục gọi là núi Nấm Chiêng, hình thế của ngọn núi là nhô lên, uốn lượn quanh co. Bên phải nhìn xuống là sông Ninh, như ôm lấy, xưa nay người lên chiêm ngưỡng đều coi là nơi danh thắng. Tương truyền mộ tổ họ Đặng phát tích từ vùng đất địa linh nhân kiệt này. Về lý quả là như vậy.
Ngạn ngữ có câu khắc tại bia:
Bao giờ núi Chúc hết cây
Sông Ninh hết nước, họ này hết quan .
Tức là đất này vậy.
Bà Chính thất họ Nguyễn hiệu Từ Hậu được phong Tòng lục phẩm An nhân, sinh con trai Đăng Khoan, giỗ 3 thang 6, mộ táng tại xứ Cửa Chùa xã Chúc Sơn.
Bà thứ thất họ Nguyễn hiệu Từ Tâm được phong Thất phẩm An nhân, sinh Đặng Lâm, giỗ 23 tháng 8, mộ táng xứ Cửa Chùa chùa xã Chúc Sơn.
ĐỜI THỨ 11
Tiên tổ họ Đặng húy Khoan là con trưởng ông Đặng Nghi sinh năm Kỷ Sửu (1409 ) niên hiệu Trùng Quang. Năm đầu thời đó, đất nước loạn lạc, quân Minh tàn phá, nhân dân đói rét, gia đình bị tiêu hủy, cha mẹ ly tán. Ông giỗ ngày 15 tháng 8 mộ táng xứ Cửa Chùa xã Chúc Sơn, được truy phong Thiện Khánh hầu.
Tổ bà họ Nguyễn hiệu Từ Liêm được phong tặng lục phẩm An nhân, giỗ ngày 6 tháng 10 mộ táng Cửa Chùa.
Tiên tổ họ Đặng húy Lâm là em ông Đặng Khoan, sinh ngày 10 tháng 10 năm Nhâm Thìn (1412 ) niên hiệu Trùng Quang năm thứ 4. Ông giỗ ngày 7 tháng 11 mộ táng xã Mỹ Lương, huyện Từ Thủy được truy phong Cao Sơn hầu.
Bà Chính thất họ Nguyễn hiệu Trang Tính, giỗ ngày mồng 7 tháng 3, mộ táng xứ Cửa Chùa xã Chúc Sơn.
ĐỜI THỨ 12
Tiên tổ họ Đặng húy Tuyên sinh ngày 20 tháng10 năm Đinh Mùi. Ông sinh ra trong một gia đình nghèo nhưng chăm học, thi đậu Hương cống, làm quan Tá lang Cẩn sự, được tăng Lương Mỹ hầu, giỗ ngày 26 tháng 6, mộ táng tại xứ Cửa Chùa xã Chúc Sơn.
Tổ bà là Nguyễn Thị Hạnh hiệu Lưu Ngọc, phong tăng Lục phẩm An nhân, giỗ ngày 4 tháng 8 mộ hợp táng với ông Đặng Tuyên.
Tiên tổ họ Đặng húy Lội, lúc còn nhỏ tên là An, sinh năm Canh Tuất (1430) đời Lê Thái Tổ niên hiệu Thuận Thiên thứ 3. Ông tính khoan hòa, cần mẫn, được phong Thắng Phúc hầu, thọ 68 tuổi, giỗ ngày mồng 6 tháng 4, mộ táng tại xứ Cửa Chùa xã Chúc Sơn.
Tổ bà hiệu là Từ Nhân, thọ 70 tuổi, giỗ ngày 20 tháng 10, mộ táng tại xứ Cửa Chùa xã Chúc Sơn.
Tiên tổ họ Đặng húy Minh sinh năm Canh Tuất (đáng lẽ ra là Canh Tý) đời Lê Thái Tổ niên hiệu Tuận Thiên năm thứ 3 (1430) được tặng Lương Thiệu hầu.
Tiên tổ họ Đặng húy Hoàn sinh năm Nhâm Tý. Ông thông minh nhân hậu, được phong tặng Đô đốc Khánh Hoàn hầu.
ĐỜI THỨ 13
Tiên tổ họ Đặng húy Túc sinh ngày 20 tháng 8 năm Ất Mão, niên Thái Hòa đời vua Lê Nhân Tông (1442- 1453 ) tặng Nghiêm Túc hầu, gia tặng Đô đốc đồng trị, tả Đô đốc Thiếu bảo Nghiêm Quận công. Ông thọ 73 tuổi. Giỗ ngày 18 tháng 6, mộ tại xứ Ngọc Giả xã Chúc Sơn.
Tiên tổ họ Đặng húy Phúc Sĩ sinh ngày 15 tháng 3 năm Kỷ Mùi (Tỵ ?) đời vua Lê Nhân Tông niên hiệu Thái Hòa thứ 7 (1449).
Tiên tổ họ Đặng húy Doãn sinh ngày 16 tháng 6 năm Đinh Tỵ (?) đời vua Lê Nhân Tông niên hiệu Thái Hòa thứ 5 (1447). Ông học thông minh nhưng thi không đậu.
Tiên tổ họ Đặng húy Chí sinh ngày 15 tháng 3 năm Tân Mùi niên hiệu Thái Hòa thứ 9 (1451), thi Hương trúng Cống sĩ, làm quan đến Tả Thị lang, phong tặng Khánh Thiện Hầu. Giỗ ngày 25 tháng Giêng, hưởng thọ 72 tuổi, mộ táng xứ Cửa Chùa, xã Chúc Sơn, sau cải táng tại xứ Ngọc Giả.
Tiên tổ tỷ (bà) Chính thất phu nhân hiệu Đoan Trang.
Giỗ ngày mồng 8 tháng 6, hưởng thọ 74 tuổi mộ táng xứ Cửa Chùa xã Chúc Sơn.
Tiên tổ họ Đặng húy Khánh sinh ngày 18 tháng 4 năm Canh Ngọ đời vua Lê Nhân Tông niên hiệu Thái Hòa thứ 11 (1452), phong tặng Khánh Phúc hầu.
ĐỜI THỨ 14
Tiên tổ họ Đặng húy Nghị lúc bé tên Luận, sinh năm Tân Tỵ, đời vua Lê Nhân Tông, niên hiệu Hồng Đức năm thứ 10 (1479). Lúc nhỏ, ông thông minh khác thường, nhà nghèo nhưng hiếu học. Ông tu luyện võ nghệ, sức mạnh có thừa. Gặp thời loạn lạc, ông giúp nước an dân, được phong Thống lính quân Hải Quận công, sau vận mệnh (vua ) đến xứ Nghệ đánh giặc bắt tướng giặc Phạm Giang trước trận tại thôn Nghĩa Liệt ở Lam Thành, được phong sắc, trong sắc có câu (dịch nghĩa ):
“Có công được phong bách hộ. Nay sắc “
Giỗ mồng 10 tháng 10 mộ táng xứ Ngọc Giả xã Chúc Sơn.
Tiên tổ họ Đặng húy Điện sinh ngày 12 tháng 2 năm Canh Thìn đời vua Lê Thánh Tông năm Hồng Đức thứ 11 (1480), phong Điện Dụ hầu, sau đổi là Nghiêm Dụ hầu, phong Đô đốc chỉ huy Thiêm sự.
Giỗ mồng 9 tháng 12, mộ táng tại Thịnh Phúc.
Tiên tổ họ Đặng húy Minh, sinh ngày 22 tháng 6 năm Quý Mùi đời vua Lê Thanh Tông niên hiệu Hồng Đức thứ 14 (1483) phong tặng Minh sơn hầu, gia tặng Đô đốc Đồng tri.
ĐỜI THỨ 15
Tiên tổ họ Đặng húy Huấn sinh ngày 23 tháng 6 năm Kỷ Mão đời vua Lê Chiêu Tông năm Quang Triệu thứ 4 (1519). Năm ông 4 tuổi, thân phụ ông tử trận tại Nghệ An. Năm ông 9 tuổi, thân mẫu tạ thế. Ông được cụ Nghiêm Dụ công nuôi dưỡng. Ông tính thông minh luôn cố gắng hết mình để kế tục sự nghiệp tiền nhân. Ông là võ tướng tài hoa, phù Lê, diệt Mạc, làm quan đến chứ Hữu Đô đốc, tước Nghĩa Quận công, Tiên phong Vân nghĩa Vinh lộc đại phu, trung thành với chúa, coi sóc trong nội cung, quản đốc Thị hậu nội kiêm Quốc chính, Đô súy, gia phong Vũ Nghi tướng quân, trung hưng công thần đệ nhất.
Ông được truy phong Thái úy Nghĩa Quốc công, Hậu Trạch công Thượng đẳng Đại vương. Sử thời Hậu Lê có ghi: “ Con cháu ông Đặng Huấn đời đời vinh hoa phồn thịnh ”.
Ông mất ngày 18 tháng 6 năm Canh Dần đời vua Lê Thế Tông niên hiêu Quang Hưng thứ 13 (1590), hưởng thọ 72 tuổi. Mộ táng tại thôn Thịnh Phúc.
Phủ từ đường tại Mạc Xá nay đổi là Lương Xá phụng cúng tiên tổ Đặng Huấn, Đặng Tiến Vinh, Đặng Thế Tài.
Tiên tổ tỷ (bà) họ Lê húy Lư tự là Ngọc Huyền. Bà là con gái quan Thái tể Đôn Thuận Quận công Lê Bá Đễ, cháu gái quan Thượng tễ Diễn Quốc công Lê Bá Ly. Bà sinh năm Mậu Tuất (1538), mất ngày tháng 7 năm Đinh Mùi (1670), thọ 70 tuổi.
Tiên tổ họ Đặng húy Khiêm, lúc nhỏ là Khang. Ông là người có tư chất thông minh, dáng người đẹp đẽ, chỉ sống được 20 tuổi.
Tiên tổ họ Đặng húy Toàn, tự là Minh Châu, tặng là Toàn Phúc hầu, mất năm 14 tuổi, giỗ ngày 15 tháng 7. Mộ táng tại của chùa Chúc Sơn
Tiên tổ họ Đặng húy Tiến, sinh ngày 20 tháng 5 năm Quý Mùi niên hiệu Thống Nguyên đời vua Lê Cung Hoàng (523), phong tặng Thành Tín hầu, gia tặng Đô đốc Đông tri chỉ huy Thiêm sự Tả Đô đốc Thành Quận công.
ĐỜI THỨ 16
Tiên tổ họ Đặng húy Vinh sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhăm Tuất (1562) đời vua Lê Anh Tông niên hiệu Thiên Hựu. Ông được phong Bảo vệ Vương Thái bảo Hà Quận công, gia phong Thái úy Thái phó Tả Tư không Thượng trật, truy phong Thượng đẳng Đại vương. Ông mất ngày mồng 6 tháng 7 năm Ất Sửu (1625), hưởng thọ 64 tuổi.
Tiên tổ tỷ (bà) họ Đỗ phong Nhị phẩm đoan nhân. Giỗ ngày 28 tháng 3. Mộ ông bà hợp táng xứ Đồng Quý.
Tiên tổ họ Đặng húy Ký sinh ngày 20 tháng 10 năm Bính Dần (1566) đời vua Lê Anh Tông niên hiệu Thiên Hựu. Ông được phong Đặc Tiến Kim Tử Vinh Lộc Đại phu Thụy là Nhân Hậu, lại thụy là Thuần Tín.
ĐỜI THỨ 17
Tiên tổ họ Đặng húy Thế Tài sinh năm Nhâm Thìn niên hiệu Quang Hưng (1592). Ông có công phù Lê được phong Doanh Quận công, Dực Vận Công thần, truy phong Thái tễ Thượng đẳng Đại vương
Giỗ ngày 18 tháng Giêng
Phần mộ tại Núi Non Dài, Ngọc Giả, Chúc Sơn, Chương Đức.
Tiên tổ tỷ (bà) Trịnh Thị Ngọc Thạc phong Nhất phẩm phu nhân, Đoan trang công chúa.
Giỗ mồng 6 tháng 6.
Mộ táng xứ Cửa Chùa.
Tiên tổ họ Đặng húy Thế Khoa là con thứ ông Đặng Tiến Vinh, sinh năm Qúy Tỵ niên hiệu Quang Hưng (1593). Ông làm quan được phong tước Dực Vận, Tán trị Công thần, Tham Trung (Tụng ?), Binh Bộ Thượng thư, Liêm Quận công, truy phong Thái bảo Thượng trụ quốc Đại vương.
Giỗ ngày mồng 3 tháng 2, mộ thất truyền.
Tiên tổ Đặng Thế Khanh là con thứ ba của ông Đặng Tiến Vinh, sinh năm Ất Mùi niên hiệu Quang Hưng (1595). Ông làm quan đến Đô đốc triều Lê, truy phong Thái tể Khâm Quận công.
Tiên tổ Đặng Thế Trụ là con thứ tư của ông Đặng Tiến Vinh, sinh năm Giáp Thìn (1604) niên hiệu Hoằng Định. Ông làm Đô đốc triều Lê tước Điện Lộc hầu, truy phong Đốc Bật trợ uy Điện Quận công. Giỗ ngày mồng 7 tháng 7.
Tiên tổ Đặng Thế Năng là con thứ năm của ông Đặng Tiến Vinh, sinh năm Đinh Tỵ (1617) niên hiệu Hoàng Định. Ông được phong Hiệu Thắng hầu.
Tiên tổ Đặng Đình Phụng là con thứ sáu của ông Đặng Tiến Vinh, ông làm quan tới Quản lãnh tứ thành trấn thủ Sơn Tây, truy phong Nghĩa Hiệp Quận công.
Hoàng triều Cảnh Hưng vạn vạn năm ngày 15 tháng giêng năm Ất Sửu (1745).
Từ đây trở lên, cháu là Tổng trấn Nghệ An, Thái Nhạc Quận công Đặng Sĩ Hàn kính căn phụng sao.
Từ đây trở xuống do Đặng Sĩ Hàn biên tập.
Nhân nơi bờ liễu gặp lúc thanh nhàn
Cửa son nghĩa tới cội nguồn, ngẫm kỹ công đức tổ tiên như núi Thái Sơn bàn thạch, nghìn vạn năm tích đức, tích thiện để lại cho con cháu đời đời.
Đó là quả phúc lớn.
Kính cẩn biên tập danh hiệu, công tích, sự nghiệp tổ tiên, lưu muôn đời cho con cháu để cho con cháu trông lên mà không vong ơn.
Ngày 15 tháng Giêng năm Ất Sửu ( 1745 ) triều vua Cảnh Hưng.
Cháu đời sau là Tổng trấn Nghệ An, Thái Nhạc Quận công Đặng Sĩ Hàn biên tập.
ĐỜI THỨ 18
Tiên tổ Đặng Đình Thự sinh năm Tân Mùi niên hiệu Đức Long thứ 3 (1631) đến năm Ất Mùi (1655) niên hiệu Thịnh Đức thứ 4 ông phò giá vua Thịnh Đức (Thần Tông Lê Duy Kỳ ) nam chinh.
Đến năm Bính Thân (1656) niên hiệu Thịnh Đức 4, ông được làm phó tướng. Đến năm Đinh Dậu (1657), ông được thăng Đô đốc Thiêm sự. Tháng 9 năm đó ông đem quân dẹp giặc Mạc tại Cao Bằng, bắt sống được tướng Mạc là Luận Quận công Dương Đình Lý.
Triều đình luận công thăng ông lên hai bậc làm Nam quân Đô đốc Đồng tri.
Năm Chính Hòa thứ nhất (1680) đời vua Lê Hy Tông có sắc chỉ sai các quan trong triều trước bài vị Hậu Trạch Công vào thái miếu thờ phối hưởng.
Năm Qúy Hợi (1683) ông được thăng Thiếu phó.
Năm Ất Sửu (1685) ông được phong Thái bảo.
Như thế, ba năm liền ông được phong chức trọng quyền cao.
Ông sai con là Đặng Đình Tướng tục biên “Đặng tộc đại tông phả”. Chú họ là Đặng Tiến Bá trùng tu phủ từ đường thờ tiên tổ.
Ông làm trấn tủ Nghệ An 24 năm, để lại cho nhân dân Nghệ An và con cháu họ Đặng ngàn vạn ân đức.
Nhân dân thôn Triều Sơn, xã Nguyệt Áo, huyện Thiên Lộc lập đền thờ ông.
Có bài minh trên bia ghi rõ:
“Hữu công tất bảo
Tích thiện dư khương
Quỳnh cư vĩnh hảo
Lam thủy lưu hương
Ức niên phần bật
Vạn đại diễn hương
Thử công thử đức
Địa cửa thiên trường”.
Tạm dịch:
“Có công tất được báo
Tích thiện ắt có phúc lành
Như ngọc cần phải giữ
Để ngát hương sông Lam
Ngàn năm giúp quê hương
Danh tiếng lưu muôn đời
Ngàn năm công đức ấy
Mãi mãi cùng đất trời”.
Ông mất ngày 23 tháng Giêng năm Mậu Dần (1698), hưởng thọ 68 tuổi.
Tiên tổ tỷ ( bà ) là phu nhân Nguyễn Thị Điển, người xã Thượng Lâm huyện Mỹ Đức.
ĐỜI THỨ 19
Tiên tổ Đặng Đình Tướng, ông là thứ ba của ông Đặng Tiến Thự. Ông sinh năm Kỷ Mùi niên hiệu Khánh Đức thứ nhất (1649) đời vua Lê Thần Tông.
Năm Cảnh Trị thứ 8 đời vua Lê Huyền Tông, khoa Canh Tuất (1670), ông đỗ đệ tam giáp đồng Tiến sĩ, xuất thân, phụng mệnh đi sứ Bắc, ông làm quan đến Tả Thị lang, Thượng thư, thăng Đại Tư mã chưởng phủ sự.
Sau khi mất, truy phong Đại Tư không, Ứng Quận công, phong Phúc thần.
Ông mất ngày 15 tháng 5 năm Ất Mão (1735) niên hiệu Vĩnh Hựu Nguyên Niên.
Chánh thất phu nhân: Bùi Thị Khang thọ 61 tuổi.
Thứ nhất phu nhân: Phạm Thị Đằng sinh 3 con trai.
Đặng Đình Gián – Bảo Huân Quận công.
Đặng Đình Đế - Tổng binh Đồng tri Nhuận Phái hầu.
Đặng Đình Thức – Hình thuyên Câu kê Thái bộc Tự khanh.
CHI GIÁP - GIÁP NHỊ
ĐỜI THỨ 10
Đặng Đình Quả là con thứ 2 của Bình chương Quốc sự Đặng Dung. Ông là giám sinh Quốc Tử Giám, làm quan tới chức Tham nghị ty thừa chính sứ Quảng Yên, phong tước Quảng Nhân (Nam ) hầu. Về sau khi thân phụ bị giặc Minh bắt, ông tị nạn hồi cư về Tả Thiên Lộc. Mộ táng tại xứ Đồng Thắng.
Tiên tổ tỷ: Phu nhân người họ Hà, sinh Đặng Đôn Phục và Đặng Ngũ Khánh.
ĐỜI THỨ 11
Con trưởng Đặng Đôn Phục di cư tại xã Kim Bằng, huyện Thạch Hà. Ông thi đậu Đệ nhị giáp Tiến sĩ (Hoàng giáp) khoa Canh Thìn (1580) làm quan đến Hiến sát sứ xứ Thanh Hoa tước Thọ Lộc hầu. Sau khi ông mất, mộ táng tại xứ Ao Đồng Cồn.
Chính thất phu nhân Nguyễn Thị Kim Bằng.
Con thứ là Đặng Ngũ Khánh ở tại thôn Đông Rạng, xã Tả Thiên Lộc. Ông làm giám sinh Quốc Tử Giám, làm quan tới tước Vĩnh KhánhNam.
Chính thất phu nhân: Nguyễn Thị Nhậm, sinh Đặng Ngũ Quế.
ĐỜI THỨ 12
Đặng Ngũ Quế là con trưởng ông Đặng Ngũ Khánh. Ông có tên tự là Đức Nhuận, hiệu Hải Lĩnh tiên sinh. Ông làm quan giám sinh Quốc Tử Giám, thi trúng Tam trường, làm quan đến Tổng binh sứ Đồng tri ty Đô Tổng binh trấn Quốc Đại tướng quân, đạc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu tước Thọ Lượng tử.
Chính thất phu nhân là Nguyễn Thị Định là con gái quan Thái tể tướng Nguyên Văn Giai.
Thứ nhất phu nhân là Đỗ Thị Phương sinh 2 con trai: Đặng Ngũ Sách và Đặng Ngũ Dượng.
Á thất phu nhân là Vũ Thị Cẩn, sinh 7 con trai, 2 con gái:
Con trưởng: Đặng Ngũ Vinh làm quan Viên Tử.
Con trai thứ 2: Đặng Ngũ Tĩnh .
Con trai thứ 3: Đặng Ngũ Thạnh làm Tri phủ Diễn Châu.
Con trai thứ 4: Đặng Ngũ Chưởng là Tri huyện
Con trai thứ 5: Đặng Văn Chung.
Con trai thứ 6: Đặng Văn Trung làm Vệ úy.
Con trai út: Đặng Văn Cẩm làm Vệ úy.
Con gái: Đặng Thị Lý và Đặng Thị Cung.
CHI GIÁP - GIÁP TAM.
ĐỜI THỨ 10
Đặng Di được phong Cao Sơn hầu. Ông là con thứ 3 của tổ Đặng Dung, lập nghiệp ở Sơn Vi, Mạo Phổ (nay là Phú Thọ).
ĐỜI THỨ 11
Đặng Thiếp là con trai ông Đặng Di, ông đậu Hoàng giáp khoa Quý Dậu niên hiệu Thái Hòa 11 (1453) đời vua Lê Nhân Tông, làm quan đến Chánh sứ ty Tham nghị Hóa Châu.
Ông có làm sớ tâu lên vua 5 việc lớn:
1. Tăng cường phòng thủ hải khẩu Thu Dung (nay là Thuận An).
2. Lập hải khẩu Thuận An.
3. Bãi miễn chức dịch thuế vì vô tác dụng, tiêu tốn công quỹ.
4. Khai thông hải khẩu Liên Từ ở Lệ Thủy- Tân Bình.
5. Lập dân lưu vong hồi cư tại châu Bố Chánh khai khẩn ruộng hoang.
Có việc được vua phê chuẩn, có việc được nhân dân, sĩ phu ca ngời.
ĐỜI THỨ 12
Đặng Công Hoàn (Đặng Tòng Củ), con trưởng ông Đặng Thiếp, đậu Hoàng giáp, làm quan đến Thượng thư bộ Lễ.
Đặng Minh Khiêm, con trai thứ 2 Đặng Thiếp, khoa Đinh Mùi (1487) cùng em là Đặng Tán đậu Tiến sĩ cùng khoa, làm quan đến Hoàng Lâm Viện, Ông phụng mệnh vua đi sứ Bác, làm quan đến Tả Thị lang bộ Lại, thăng Thượng thư bộ Lễ kiêm Thái phó, Tổng tài Quốc sử quán. Thời vua Lê Chiêu Tông vâng mệnh vua tu sủa, hoàn chỉnh bộ Đại việt sử ký. Họ Mạc thoán vị nhà Lê, ông bỏ quan đi ở ẩn. Tác phẩm của ông còn lại 30 bộ “Việt giám vịnh sử thi tập” và 2 tác phẩm “Thi lục”, “Thi tuyển”.
Đặng Công Tán là con trai thứ 3 ông Đặng Công Thiếp. Khoa Đinh Mùi (1487) triều vua Lê Thánh Tông, ông đậu Tiến sĩ, vâng mệnh đi sứ Bắc, làm quan đến chức Hữu Thị lang.
ĐỜI THỨ 13
Đặng Minh Cát là con trai trưởng ông Đăng Minh Khiêm. Triều vua Lê Thống Nguyên, ông làm quan Tham nghị xứ Hải Dương. Họ Mạc cướp ngôi nhà Lê, ông ở ăn tại thôn Phú Nghĩa huyện Cẩm Giàng. Về sau, con cháu (có chi) di cư đến Mỹ Lộc phủ Thiên Trường. Ông Đặng Hữu Tương lập ra 5 trang trại : ở Mỹ Lộc lập 4 trang trại và ở Thanh Hóa 1 trang trại.
Không kể xứ nào, con cháu cũng phát huy gia phong, gia tộc.
“Tiết nghĩa tại Thiên Lộc
Khoa Danh tại Sơn Vị
Cư sĩ tại Cẩm Giàng
Tôn Hoàng giáp kế thừa sư bảo
Tự Hồng Sơn kiến tạo tinh anh ”
Dịch:
“Khí tiết tại Thiên Lộc
Đỗ đạt tại Sơn Vị
Đi ở ẩn tại Cẩn Giàng
Chúa Hoàng giáp kế thừa sư bảo
Từ Hồng Sơn tạo dựng tinh anh”
Tổ tiên, con cháu, anh em một nhà tiết nghĩa khoa danh.
Sau con cháu không hợp tác với giạc Mạc. Đến đời Lê trung hưng mới ra làm quan, khi đi thi đỗ đạt thì đã nhiều tuổi như các ông.
Đặng Thuần Trung 54 tuổi.
Đặng Thuần Nhân 54 tuổi.
Đặng Kính Chi 64 tuổi.
Đặng Duy Minh 64 tuổi.
Đặng Duy Mậu 65 tuổi.
GIÁP CHI TỨ
ĐỚI THỨ 10
Đặng Công Thiếp là con trai thứ 4 Đặng Dung, Giặc Minh bắt mất cha. Ông di cư đến Sơn Đồng huyện Lập Thach tạo dựng cơ nghiệp.
Tiên tổ Đặng Công Thiếp thi đậu Hoàng giáp triều Lê Thánh Tông, con cháu tiếp tục khoa danh, cư trú nhiều nơi.
Tiên tổ Đặng Công Hòa thi đậu Hoàng giáp triều Lê Thánh Tông, làm quan đến Hiến sát sứ.
Tiên tổ Đặng Công Thận đậu Hoàng giáp triều Lê Thánh Tông làm quan đến Hiến sát sứ, thăng Tả Thị lang bộ Lễ.
Tiên tổ Đặng Công Điểm đậu Tiến sĩ triều Lê Thánh Tông. làm quan đến Hiến sát sứ.
Tiển tổ Đặng Công Lễ, tước Bảo Quận công.
Tiên tổ Đặng Công Lĩnh làm quan thái giám, tước Mộc Liêm niên hiệu Đức Nguyên năm thứ 2 (1675).
Tiên tổ Đặng Công Toàn làm quan Tham nghị xứ Quảng Yên.
Tiên tổ Đặng Công Di sinh năm Canh Dần niên hiệu Khánh Đức, làm quan Thị lang kiêm Tổng tài Quốc sử quán.
Tiên tổ Đặng Công Liễu sinh năm Quý Tỵ niên hiệu Thịnh Đức làm quan Hành Khiển Chánh sứ Quảng Nam.
Tiên tổ Đặng Công Điển làm quan ở ty Tham chính Lạng Sơn.
Hậu duệ các vị tiên tổ di tán nhiều nơi ở Thanh Hóa, Hải Dương, Quảng Nam, Sơn Na, Thái Bình, Bắc Giang, Vĩnh Long, Gia Định.
TRƯỞNG CHI ẤT
ĐỜI THỨ 9
Tiên tổ họ Đặng húy Chủng, ông là con thứ 2 của Quốc công Đặng Tất, đi thi trúng khoa Hoành từ, làm quan Hàn Lâm Viện Hiệu thảo. Ông cùng anh Đặng Dung phò tá vua Trùng Quang. Sau vì ông Đặng Dung bị giặc Minh bắt, ông về ẩn ở chùa Hương Tích, làm Thiền sư. Sau thấy không được yên ổn, ông quay về ẩn dật tại Vô Điền, lập nghiệp khai hoang, xây dựng nhà cửa, mở trường dạy học ở địa phương.
Tác phẩm văn học của ông còn lại:
Bài văn trên chuông chùa Sùng Quang.
Bài minh trên chuông chùa Hương Tích.
Đặng Chủng và phu nhân sinh 4 nam:
Con trưởng: Đặng Viên.
Cơn thứ 2: Đặng Nhàn.
Con thứ 3: Đặng Khiêm.
Con thứ 4: Đặng Bá.
CHI ẤT NHỊ
ĐỜI THỨ 9
Tiên tổ Đặng Nhàn, tự là Trọng Quang, con thứ 2 Hàn Lâm Viên Đặng Chủng. Ông có công đánh giặc được phong Phúc An hầu, sau di cư đến thôn Trung Lá xã Bạch Đường, huyện Nam Đường, xứ Nghệ An. Ông có hai con trai, hai con gái:
Con Trưởng: Đặng Trọng Tuân.
Con thứ: Đặng Trọng Trân.
Con gái: Đặng Thị Quê và Đặng Thị Anh.
Đặng Trọng Tuân di cư Hải Dương.
Đặng Trọng Tuân sinh Đăng Minh Bách và con gái là Đặng Thị Lam.
Đăng Minh Bích đậu Tiến sĩ khoa Giáp Thìn triều Lê Thánh Tông niên hiệu Hồng Đức thứ 15 (1484), làm quan đến Thượng thư bộ Hộ. Ông còn để lại 22 bài thơ ghi trong “Việt Thi lục”. Sau khi mất, ông được truy phong Đoan túc, Dực bảo trung hưng lĩnh phù tôn thần, gia phong Trung đẳng thần.
Chính thất phu nhân là Thái Thị Thường.
Thứ nhất phu nhân là Nguyễn Thị Lương.
Trắc thất phu nhân là Nguyễn Thị Thạc.
Thắc thất phu nhân là Hoàng Thị Tuấn.
Bốn bà sinh 9 nam 5 nữ.
Con trưởng: Đặng Minh Ngọc.
Con thứ 2: Đăng Minh Châu.
Con thứ 3: Đặng Minh Tấn.
Con thứ 4: Đăng Minh Hoàn.
Con thứ 5: Đặng Minh Điển.
Con thứ 6: Đặng Minh Định.
Con thứ 7: Đặng Minh Ngoạn.
Con thứ 8: Đặng Minh Hiền.
Con trai út: Đặng Minh Triết.
Cả 9 con đều là Hiệu sinh trong làng, sau di cư đi nhiều nơi, cha con khoa hoạn, một nhà hiển vinh.
Con trai thứ 2 là Đặng Minh Châu, đậu Hương tiến khoa Mậu Dầu triệu Lề Thần tông hiệu Dương Hòa (?) (1638) làm quan Tả Thị lang,
Phu nhân là Nguyễn Thị Tùy, sinh 2 con trai:
Con trưởng Đặng Trọng Minh, con cháu ở phân tán tại: Thanh Chương, Long Sơn, Long Thái, Thái Sơn, Đặng Sơn.
Con thứ Đặng Trọng Chí, con cháu phân tán tại Trao Thanh, Nho Lâm, Nghi Lộc, Quỳnh Lưu, Nam Hà, Tiên Cầu, Lộc Sơn.
CHI ẤT TAM
ĐỜI THỨ 9
Đặng Kiêm là hậu duệ của Đô đốc Đặng Tướng Công, con cháu về sau di cư tới xã An Lạc, huyện Nghi Xuân.
CHI ẤT TỨ
ĐỜI THỨ 9
Đặng Bá Nam là con ông Đặng Minh Trí, tước Nghĩa Liệt hầu, sau phong tặng Hạc Quận công, đổi phong Hồng Quận Công, di cư Hoa Viên, Nghi Xuân.
Huyện Tam Kỳ, tỉnh Vĩnh Long, ngày tốt năm Canh Ngọ niên hiệu Gia Long thứ 10 (1811) triều vua nhà Nguyễn, cư sĩ, Cử nhân Đặng Tố Nga kính cẩn phụng sao.
Ngày tốt năm Minh mệnh Nguyên niên (1820 ), tri huyện Tam Kỳ tỉnh Vĩnh Long là Cử nhân Đặng Đình Huệ kính cẩn phụng sao.
BÀI TỰA
PHẢ CHI TRƯỞNG HỌ ĐẶNG
Đặng tộc đại tông phả là phả chi trưởng họ Đặng vậy. Họ ta vốn là người huyện Thiên Lộc (nguyên quán huyện Thiên Lộc, phủ Hà Trung, trấn Thanh Hoa, Thiên Lộc nay là Hậu Lộc) lưu lạc ở ấp ta đến nay đã sáu, bảy đời. Xưa kia đã có gia phả ghi chép từ cụ Tị tổ là Cao Nghĩa Thần triều Trần do (Đặng) Đình Thự biên tập. Trên từ cụ Cao Nghĩa Thần, dưới đến hiển khảo, nguồn gốc từ đâu đến, sinh ra từ chi nhánh nào, phần mộ, ngày giỗ phần nhiều ghi thiếu hoặc vì khi nhà Trần mất nước, do nạn binh Minh, giặc Mạc mà mất, hoặc ghi chép thiếu sót.
Chi trưởng ta từ cụ Đình Nghi đến cụ Đình Huấn từ trước đến nay mới sáu, bảy đời, tuy nghèo nhưng khoa hoạn theo nhau kế nối. Đời trước gây dựng, đời sau kế thừa, còn có chỗ tham khảo, hiệu đính. Tổ tông tích đức hàng trăm năm nay mới nảy nở.
Bắt đầu từ cụ Đình Huấn lập riêng phả chi trưởng, thế thứ trước sau, niên đại xa gần, phần mộ, ngày giỗ thường ngày phả cũ đã ghi chép lại thì đã rõ. Những điều phả cũ còn chưa ghi chép thì phụ thêm vào, tất cả đều kính cẩn biên chép. Ngỏ hầu con cháu hàng ngàn năm sau còn ngợi ca công lao vất vả cũng như khí tiết giản dị, cương nghị của tổ tiên. Những vị thành đạt đã có thê chiêm ngưỡng mà noi theo; những người hư hỏng cũng biết lấy làm răn, vậy nhân đây bày tổ lời nói này.
Cháu Đặng Đình Tướng, Tiến sĩ triều Lê, vậng mệnh sang sứ phương Bắc, Lại Bộ Thương thư Tả Thị lang phong Nam tước, đổi làm Tả Đô đốc ra trấn Tây Nam, thăng Tá Lý Công Thần Tiền Hòa doanh Thái phó làm bài tựa.
PHẢ HỆ HỌ ĐẶNG
Kính cẩn viết: Trên từ vị tổ đầu tiên Cao Nghĩa Thần, dưới đến tiên tổ là ông Đình Huấn thế thứ khá rõ ràng nên không chép lại mà tất cả ghi theo phả cũ.
Riêng từ ông Đình Nghi, chi ta bắt đầu từ ông sinh ra nên hệ cũ lấy ông là tiên tổ, tức khởi đầu từ ông Đình Nghi, ông là thế hệ thứ nhất của riêng chi trưởng.
Mùa thu nămQúy Hợi niên hiệu Chính Hòa thứ 4 (1683).
Nam quân Đô đốc Tổng trọng thần Yên Quận công Đặng Đình Thự biên tập.
Ngày Dần tháng Giêng mùa Xuân năm Bính Dần niên hiệu Chính Hòa thứ 7 (1686). Đi sứ Bắc, Lại Bộ Thượng thư Tá Lý Thái phó Đặng Đình Tướng tục biên.
CHI TRƯỞNG
TẠI MẠC XÁ - CHƯƠNG ĐỨC
NAY ĐỔI LÀ LƯƠNG XÁ - CHÚC SƠN
ĐỜI THỨ 1
Tiên tổ họ Đặng húy Nghi là con trưởng ông Đặng Dung. Ông sinh 20 tháng 10 năm Tân Mùi (1391) đời Trần Thuận Tông niên hiệu Quang Khải (theo sử là Quang Thái ) năm thứ 2 (1389).
Ông sinh ra gặp thời loạn lạc, gia đình ly tán, hiển tổ là Đặng Tất chết oan. Ông thắp đèn 7 tuần (báo hiếu), được đội ơn ban chức Thị dưỡng dưỡng được truy phong Phúc Thắng hầu, hưởng thượng thọ, giỗ mồng 2 tháng 3. Mộ táng xã Chúc Sơn, huyện Chương Đức tại nơi có tên là núi Hỏa Tinh, tục gọi là núi Nấm Chiêng, hình thế của ngọn núi là nhô lên, uốn lượn quanh co. Bên phải nhìn xuống là sông Ninh, như ôm lấy, xưa nay người lên chiêm ngưỡng đều coi là nơi danh thắng. Tương truyền mộ tổ họ Đặng phát tích từ vùng đất địa linh nhân kiệt này. Về lý quả là như vậy.
Ngạn ngữ có câu khắc tại bia:
Bao giờ núi Chúc hết cây
Sông Ninh hết nước, họ này hết quan .
Tức là đất này vậy.
Bà Chính thất họ Nguyễn hiệu Từ Hậu được phong Tòng lục phẩm An nhân, sinh con trai Đăng Khoan, giỗ 3 thang 6, mộ táng tại xứ Cửa Chùa xã Chúc Sơn.
Bà thứ thất họ Nguyễn hiệu Từ Tâm được phong Thất phẩm An nhân, sinh Đặng Lâm, giỗ 23 tháng 8, mộ táng xứ Cửa Chùa chùa xã Chúc Sơn.
ĐỜI THỨ 2
Tiên tổ họ Đặng húy Khoan là con trưởng ông Đặng Nghi sinh năm Kỷ Sửu (1409 ) niên hiệu Trùng Quang. Năm đầu thời đó, đất nước loạn lạc, quân Minh tàn phá, nhân dân đói rét, gia đình bị tiêu hủy, cha mẹ ly tán. Ông giỗ ngày 15 tháng 8 mộ táng xứ Cửa Chùa xã Chúc Sơn, được truy phong Thiện Khánh hầu.
Tổ bà họ Nguyễn hiệu Từ Liêm được phong tặng lục phẩm An nhân, giỗ ngày 6 tháng 10 mộ táng Cửa Chùa.
Tiên tổ họ Đặng húy Lâm là em ông Đặng Khoan, sinh ngày 10 tháng 10 năm Nhâm Thìn (1412 ) niên hiệu Trùng Quang năm thứ 4. Ông giỗ ngày 7 tháng 11 mộ táng xã Mỹ Lương, huyện Từ Thủy được truy phong Cao Sơn hầu.
Bà Chính thất họ Nguyễn hiệu Trang Tính, giỗ ngày mồng 7 tháng 3, mộ táng xứ Cửa Chùa xã Chúc Sơn.
ĐỜI THỨ 3
Tiên tổ họ Đặng húy Tuyên sinh ngày 20 tháng10 năm Đinh Mùi. Ông sinh ra trong một gia đình nghèo nhưng chăm học, thi đậu Hương cống, làm quan Tá lang Cẩn sự, được tăng Lương Mỹ hầu, giỗ ngày 26 tháng 6, mộ táng tại xứ Cửa Chùa xã Chúc Sơn.
Tổ bà là Nguyễn Thị Hạnh hiệu Lưu Ngọc, phong tăng Lục phẩm An nhân, giỗ ngày 4 tháng 8 mộ hợp táng với ông Đặng Tuyên.
Tiên tổ họ Đặng húy Lội, lúc còn nhỏ tên là An, sinh năm Canh Tuất (1430) đời Lê Thái Tổ niên hiệu Thuận Thiên thứ 3. Ông tính khoan hòa, cần mẫn, được phong Thắng Phúc hầu, thọ 68 tuổi, giỗ ngày mồng 6 tháng 4, mộ táng tại xứ Cửa Chùa xã Chúc Sơn.
Tổ bà hiệu là Từ Nhân, thọ 70 tuổi, giỗ ngày 20 tháng 10, mộ táng tại xứ Cửa Chùa xã Chúc Sơn.
Tiên tổ họ Đặng húy Minh sinh năm Canh Tuất (đáng lẽ ra là Canh Tý) đời Lê Thái Tổ niên hiệu Tuận Thiên năm thứ 3 (1430) được tặng Lương Thiệu hầu.
Tiên tổ họ Đặng húy Hoàn sinh năm Nhâm Tý. Ông thông minh nhân hậu, được phong tặng Đô đốc Khánh Hoàn hầu.
ĐỜI THỨ 4
Tiên tổ họ Đặng húy Túc sinh ngày 20 tháng 8 năm Ất Mão, niên Thái Hòa đời vua Lê Nhân Tông (1442- 1453 ) tặng Nghiêm Túc hầu, gia tặng Đô đốc đồng trị, tả Đô đốc Thiếu bảo Nghiêm Quận công. Ông thọ 73 tuổi. Giỗ ngày 18 tháng 6, mộ tại xứ Ngọc Giả xã Chúc Sơn.
Tiên tổ họ Đặng húy Phúc Sĩ sinh ngày 15 tháng 3 năm Kỷ Mùi (Tỵ ?) đời vua Lê Nhân Tông niên hiệu Thái Hòa thứ 7 (1449).
Tiên tổ họ Đặng húy Doãn sinh ngày 16 tháng 6 năm Đinh Tỵ (?) đời vua Lê Nhân Tông niên hiệu Thái Hòa thứ 5 (1447). Ông học thông minh nhưng thi không đậu.
Tiên tổ họ Đặng húy Chí sinh ngày 15 tháng 3 năm Tân Mùi niên hiệu Thái Hòa thứ 9 (1451), thi Hương trúng Cống sĩ, làm quan đến Tả Thị lang, phong tặng Khánh Thiện Hầu. Giỗ ngày 25 tháng Giêng, hưởng thọ 72 tuổi, mộ táng xứ Cửa Chùa, xã Chúc Sơn, sau cải táng tại xứ Ngọc Giả.
Tiên tổ tỷ (bà) Chính thất phu nhân hiệu Đoan Trang.
Giỗ ngày mồng 8 tháng 6, hưởng thọ 74 tuổi mộ táng xứ Cửa Chùa xã Chúc Sơn.
Tiên tổ họ Đặng húy Khánh sinh ngày 18 tháng 4 năm Canh Ngọ đời vua Lê Nhân Tông niên hiệu Thái Hòa thứ 11 (1452), phong tặng Khánh Phúc hầu.
ĐỜI THỨ 5
Tiên tổ họ Đặng húy Nghị lúc bé tên Luận, sinh năm Tân Tỵ, đời vua Lê Nhân Tông, niên hiệu Hồng Đức năm thứ 10 (1479). Lúc nhỏ, ông thông minh khác thường, nhà nghèo nhưng hiếu học. Ông tu luyện võ nghệ, sức mạnh có thừa. Gặp thời loạn lạc, ông giúp nước an dân, được phong Thống lính quân Hải Quận công, sau vận mệnh (vua ) đến xứ Nghệ đánh giặc bắt tướng giặc Phạm Giang trước trận tại thôn Nghĩa Liệt ở Lam Thành, được phong sắc, trong sắc có câu (dịch nghĩa ):
“Có công được phong bách hộ. Nay sắc “
Giỗ mồng 10 tháng 10 mộ táng xứ Ngọc Giả xã Chúc Sơn.
Tiên tổ họ Đặng húy Điện sinh ngày 12 tháng 2 năm Canh Thìn đời vua Lê Thánh Tông năm Hồng Đức thứ 11 (1480), phong Điện Dụ hầu, sau đổi là Nghiêm Dụ hầu, phong Đô đốc chỉ huy Thiêm sự.
Giỗ mồng 9 tháng 12, mộ táng tại Thịnh Phúc.
Tiên tổ họ Đặng húy Minh, sinh ngày 22 tháng 6 năm Quý Mùi đời vua Lê Thanh Tông niên hiệu Hồng Đức thứ 14 (1483) phong tặng Minh sơn hầu, gia tặng Đô đốc Đồng tri.
ĐỜI THỨ 6
Tiên tổ họ Đặng húy Huấn sinh ngày 23 tháng 6 năm Kỷ Mão đời vua Lê Chiêu Tông năm Quang Triệu thứ 4 (1519). Năm ông 4 tuổi, thân phụ ông tử trận tại Nghệ An. Năm ông 9 tuổi, thân mẫu tạ thế. Ông được cụ Nghiêm Dụ công nuôi dưỡng. Ông tính thông minh luôn cố gắng hết mình để kế tục sự nghiệp tiền nhân. Ông là võ tướng tài hoa, phù Lê, diệt Mạc, làm quan đến chứ Hữu Đô đốc, tước Nghĩa Quận công, Tiên phong Vân nghĩa Vinh lộc đại phu, trung thành với chúa, coi sóc trong nội cung, quản đốc Thị hậu nội kiêm Quốc chính, Đô súy, gia phong Vũ Nghi tướng quân, trung hưng công thần đệ nhất.
Ông được truy phong Thái úy Nghĩa Quốc công, Hậu Trạch công Thượng đẳng Đại vương. Sử thời Hậu Lê có ghi: “ Con cháu ông Đặng Huấn đời đời vinh hoa phồn thịnh ”.
Ông mất ngày 18 tháng 6 năm Canh Dần đời vua Lê Thế Tông niên hiêu Quang Hưng thứ 13 (1590), hưởng thọ 72 tuổi. Mộ táng tại thôn Thịnh Phúc.
Phủ từ đường tại Mạc Xá nay đổi là Lương Xá phụng cúng tiên tổ Đặng Huấn, Đặng Tiến Vinh, Đặng Thế Tài.
Tiên tổ tỷ (bà) họ Lê húy Lư tự là Ngọc Huyền. Bà là con gái quan Thái tể Đôn Thuận Quận công Lê Bá Đễ, cháu gái quan Thượng tễ Diễn Quốc công Lê Bá Ly. Bà sinh năm Mậu Tuất (1538), mất ngày tháng 7 năm Đinh Mùi (1670), thọ 70 tuổi.
Tiên tổ họ Đặng húy Khiêm, lúc nhỏ là Khang. Ông là người có tư chất thông minh, dáng người đẹp đẽ, chỉ sống được 20 tuổi.
Tiên tổ họ Đặng húy Toàn, tự là Minh Châu, tặng là Toàn Phúc hầu, mất năm 14 tuổi, giỗ ngày 15 tháng 7. Mộ táng tại của chùa Chúc Sơn
Tiên tổ họ Đặng húy Tiến, sinh ngày 20 tháng 5 năm Quý Mùi niên hiệu Thống Nguyên đời vua Lê Cung Hoàng (523), phong tặng Thành Tín hầu, gia tặng Đô đốc Đông tri chỉ huy Thiêm sự Tả Đô đốc Thành Quận công.
ĐỜI THỨ 7
Tiên tổ họ Đặng húy Vinh sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhăm Tuất (1562) đời vua Lê Anh Tông niên hiệu Thiên Hựu. Ông được phong Bảo vệ Vương Thái bảo Hà Quận công, gia phong Thái úy Thái phó Tả Tư không Thượng trật, truy phong Thượng đẳng Đại vương. Ông mất ngày mồng 6 tháng 7 năm Ất Sửu (1625), hưởng thọ 64 tuổi.
Tiên tổ tỷ (bà) họ Đỗ phong Nhị phẩm đoan nhân. Giỗ ngày 28 tháng 3. Mộ ông bà hợp táng xứ Đồng Quý.
Tiên tổ họ Đặng húy Ký sinh ngày 20 tháng 10 năm Bính Dần (1566) đời vua Lê Anh Tông niên hiệu Thiên Hựu. Ông được phong Đặc Tiến Kim Tử Vinh Lộc Đại phu Thụy là Nhân Hậu, lại thụy là Thuần Tín.
ĐỜI THỨ 8
Tiên tổ họ Đặng húy Thế Tài sinh năm Nhâm Thìn niên hiệu Quang Hưng (1592). Ông có công phù Lê được phong Doanh Quận công, Dực Vận Công thần, truy phong Thái tễ Thượng đẳng Đại vương
Giỗ ngày 18 tháng Giêng
Phần mộ tại Núi Non Dài, Ngọc Giả, Chúc Sơn, Chương Đức.
Tiên tổ tỷ (bà) Trịnh Thị Ngọc Thạc phong Nhất phẩm phu nhân, Đoan trang công chúa.
Giỗ mồng 6 tháng 6.
Mộ táng xứ Cửa Chùa.
Tiên tổ họ Đặng húy Thế Khoa là con thứ ông Đặng Tiến Vinh, sinh năm Qúy Tỵ niên hiệu Quang Hưng (1593). Ông làm quan được phong tước Dực Vận, Tán trị Công thần, Tham Trung (Tụng ?), Binh Bộ Thượng thư, Liêm Quận công, truy phong Thái bảo Thượng trụ quốc Đại vương.
Giỗ ngày mồng 3 tháng 2, mộ thất truyền.
Tiên tổ Đặng Thế Khanh là con thứ ba của ông Đặng Tiến Vinh, sinh năm Ất Mùi niên hiệu Quang Hưng (1595). Ông làm quan đến Đô đốc triều Lê, truy phong Thái tể Khâm Quận công.
Tiên tổ Đặng Thế Trụ là con thứ tư của ông Đặng Tiến Vinh, sinh năm Giáp Thìn (1604) niên hiệu Hoằng Định. Ông làm Đô đốc triều Lê tước Điện Lộc hầu, truy phong Đốc Bật trợ uy Điện Quận công. Giỗ ngày mồng 7 tháng 7.
Tiên tổ Đặng Thế Năng là con thứ năm của ông Đặng Tiến Vinh, sinh năm Đinh Tỵ (1617) niên hiệu Hoàng Định. Ông được phong Hiệu Thắng hầu.
Tiên tổ Đặng Đình Phụng là con thứ sáu của ông Đặng Tiến Vinh, ông làm quan tới Quản lãnh tứ thành trấn thủ Sơn Tây, truy phong Nghĩa Hiệp Quận công.
Hoàng triều Cảnh Hưng vạn vạn năm ngày 15 tháng giêng năm Ất Sửu (1745).
Từ đây trở lên, cháu là Tổng trấn Nghệ An, Thái Nhạc Quận công Đặng Sĩ Hàn kính căn phụng sao.
Từ đây trở xuống do Đặng Sĩ Hàn biên tập.
Nhân nơi bờ liễu gặp lúc thanh nhàn
Cửa son nghĩa tới cội nguồn, ngẫm kỹ công đức tổ tiên như núi Thái Sơn bàn thạch, nghìn vạn năm tích đức, tích thiện để lại cho con cháu đời đời.
Đó là quả phúc lớn.
Kính cẩn biên tập danh hiệu, công tích, sự nghiệp tổ tiên, lưu muôn đời cho con cháu để cho con cháu trông lên mà không vong ơn.
Ngày 15 tháng Giêng năm Ất Sửu (1745) triều vua Cảnh Hưng.
Cháu đời sau là Tổng trấn Nghệ An, Thái Nhạc Quận công Đặng Sĩ Hàn biên tập.
ĐỜI THỨ 18
Tiên tổ Đặng Đình Thự sinh năm Tân Mùi niên hiệu Đức Long thứ 3 (1631) đến năm Ất Mùi (1655) niên hiệu Thịnh Đức thứ 4 ông phò giá vua Thịnh Đức (Thần Tông Lê Duy Kỳ ) nam chinh.
Đến năm Bính Thân (1656) niên hiệu Thịnh Đức 4, ông được làm phó tướng. Đến năm Đinh Dậu (1657), ông được thăng Đô đốc Thiêm sự. Tháng 9 năm đó ông đem quân dẹp giặc Mạc tại Cao Bằng, bắt sống được tướng Mạc là Luận Quận công Dương Đình Lý.
Triều đình luận công thăng ông lên hai bậc làm Nam quân Đô đốc Đồng tri.
Năm Chính Hòa thứ nhất (1680) đời vua Lê Hy Tông có sắc chỉ sai các quan trong triều trước bài vị Hậu Trạch Công vào thái miếu thờ phối hưởng.
Năm Qúy Hợi (1683) ông được thăng Thiếu phó.
Năm Ất Sửu (1685) ông được phong Thái bảo.
Như thế, ba năm liền ông được phong chức trọng quyền cao.
Ông sai con là Đặng Đình Tướng tục biên “Đặng tộc đại tông phả”. Chú họ là Đặng Tiến Bá trùng tu phủ từ đường thờ tiên tổ.
Ông làm trấn tủ Nghệ An 24 năm, để lại cho nhân dân Nghệ An và con cháu họ Đặng ngàn vạn ân đức.
Nhân dân thôn Triều Sơn, xã Nguyệt Áo, huyện Thiên Lộc lập đền thờ ông.
Có bài minh trên bia ghi rõ:
“Hữu công tất bảo
Tích thiện dư khương
Quỳnh cư vĩnh hảo
Lam thủy lưu hương
Ức niên phần bật
Vạn đại diễn hương
Thử công thử đức
Địa cửa thiên trường”.
Tạm dịch:
“Có công tất được báo
Tích thiện ắt có phúc lành
Như ngọc cần phải giữ
Để ngát hương sông Lam
Ngàn năm giúp quê hương
Danh tiếng lưu muôn đời
Ngàn năm công đức ấy
Mãi mãi cùng đất trời”.
Ông mất ngày 23 tháng Giêng năm Mậu Dần (1698), hưởng thọ 68 tuổi.
Tiên tổ tỷ ( bà ) là phu nhân Nguyễn Thị Điển, người xã Thượng Lâm huyện Mỹ Đức.
ĐỜI THỨ 19
Tiên tổ Đặng Đình Tướng, ông là thứ ba của ông Đặng Tiến Thự. Ông sinh năm Kỷ Mùi niên hiệu Khánh Đức thứ nhất (1649) đời vua Lê Thần Tông.
Năm Cảnh Trị thứ 8 đời vua Lê Huyền Tông, khoa Canh Tuất (1670), ông đỗ đệ tam giáp đồng Tiến sĩ, xuất thân, phụng mệnh đi sứ Bắc, ông làm quan đến Tả Thị lang, Thượng thư, thăng Đại Tư mã chưởng phủ sự.
Sau khi mất, truy phong Đại Tư không, Ứng Quận công, phong Phúc thần.
Ông mất ngày 15 tháng 5 năm Ất Mão (1735) niên hiệu Vĩnh Hựu Nguyên Niên.
Chánh thất phu nhân: Bùi Thị Khang thọ 61 tuổi.
Thứ nhất phu nhân: Phạm Thị Đằng sinh 3 con trai.
Đặng Đình Gián – Bảo Huân Quận công.
Đặng Đình Đế - Tổng binh Đồng tri Nhuận Phái hầu.
Đặng Đình Thức – Hình thuyên Câu kê Thái bộc Tự khanh.
Ngày lành mùa xuân năm Ất Tỵ niên hiệu Cảnh Hưng 45 (1785).
(Người) Chi Giáp nhất, Thắng Vũ, Thắng Thiên Hùng Đô đốc Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Đông (Giản) kính cẩn phụng sao.
Ngày nay đổi Đặng tộc phả hệ thành Đặng gia phả hệ toán chính thực lục quyển chi nhất thành bộ phả gồmg 6 quyển nhan đề: Đặng gia phả hệ toản chính thực lục.
Quyển I : Từ tiên tổ họ Đặng húy Nghi đến tiên tổ họ Đặng húy Nghị - Hải Quận công.
Quyển II: Hậu Trạch Nghĩa Quốc công Đặng Đình Huấn.
Quyển III: Hà Quận công Đặng Tiến Vinh.
Quyển IV: Doanh Quận công Đặng Thế Tài.
Quyển V: Yên Quận công Đặng Đình Thự.
Quyển VI: Dận Quận công Đặng Đình Miên.
Người chi giáp nhất là Thắng Vũ, Thắng Thiên Hùng Đô đốc, Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Đông (có người đọc là Giản) kính cẩn biên tập.
Huyện Tam Kỳ, tỉnh Vĩnh Long, ngày tốt năm Canh Ngọ niên hiệu Gia Long thứ 10 (1811) triều vua nhà Nguyễn, cư sĩ, Cử nhân Đặng Tố Nga kính cẩn phụng sao.
Ngày tốt năm Minh mệnh Nguyên niên (1820 ), tri huyện Tam Kỳ tỉnh Vĩnh Long là Cử nhân Đặng Đình Huệ kính cẩn phụng sao.